0 Comments

India-election-economy-jobs

(SeaPRwire) –   Khi cuộc bầu cử marathon ở Ấn Độ bắt đầu giai đoạn bỏ phiếu đầu tiên vào thứ Sáu ngày 19 tháng 4, việc làm đang là vấn đề lớn nhất trong tâm trí của hàng triệu cử tri – mặc dù nền kinh tế của đất nước đang phát triển nhanh chóng. Kể từ khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi lên nắm quyền vào năm 2014, các nhà kinh tế đã nhanh chóng đưa Ấn Độ lên bàn tiệc bạc như một đối thủ mạnh của Trung Quốc, đặc biệt là về sản xuất, đầu tư và tăng trưởng toàn cầu. Các nhà đầu tư có lý do để cảm thấy lạc quan: giữa năm 2014 và 2023, GDP của Ấn Độ tăng 55%, vượt qua các nước như Anh, Pháp, Italy và Brazil để trở thành nền kinh tế lớn thứ năm trên thế giới. IMF dự báo nó sẽ mở rộng khoảng 6,3% trong năm nay – không phải là điều nhỏ đối với một nền kinh tế nghìn tỷ đô la.

Theo nhà kinh tế học Ấn Độ Ajit Ranade, nền kinh tế đã được thúc đẩy bởi các yếu tố dài hạn hơn: “Số một là dân số tất nhiên,” ông nói. Với dân số trẻ, Ấn Độ có một trong những dân số trẻ nhất trên toàn cầu, điều này có nghĩa là “có một lực lượng lao động trẻ tuổi lớn đang mở rộng và một chu kỳ tích cực của những người sẽ tìm kiếm việc làm, kiếm tiền, tiêu tiền, tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, đóng thuế và như vậy,” theo Ranade.

Tuy nhiên, một cuộc khảo sát của CSDS-Lokniti, một viện nghiên cứu có trụ sở tại Delhi, cho thấy gần một nửa cử tri coi việc làm và lạm phát gia tăng là hai mối quan tâm lớn nhất trong cuộc bầu cử này, một dấu hiệu cho thấy Ấn Độ chưa thực sự hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế về mặt này. Do đó, các nhà kinh tế cho rằng chính phủ Modi – nếu trở lại nắm quyền cho nhiệm kỳ thứ ba – bây giờ cần tìm cách mới để tận dụng lợi thế dân số của mình.

Những con số cho thấy

Ấn Độ đã gặp khó khăn trong việc tạo ra việc làm trong thập kỷ qua, với tỷ lệ lao động giảm từ 38,6% vào năm 2011-12 xuống còn 37,3% vào năm 2022-23, theo các cuộc khảo sát lực lượng lao động của chính phủ. Chính phủ cũng gặp khó khăn trong việc tạo ra việc làm cho công nhân không có tay nghề và người nghèo, chỉ có khoảng 20% người Ấn Độ hiện đang làm việc trong lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ công nghệ thông tin, trong khi hơn 40% làm việc trong nông nghiệp, theo Liên Hợp Quốc.

Nhưng không đâu là nơi cảm nhận cơn khủng hoảng việc làm gay gắt hơn là đối với 8 triệu người trẻ có học vấn Ấn Độ tham gia lực lượng lao động mỗi năm – phá vỡ niềm tin lâu đời của người Ấn Độ rằng việc có học vấn sẽ đảm bảo cho họ có việc làm. Theo một báo cáo gần đây từ Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), 83% dân số thất nghiệp ở Ấn Độ là thanh niên, trong khi 66% là thanh niên có học vấn. Hơn nữa, ILO phát hiện ra rằng những người không có bằng đại học hoặc thậm chí không hoàn thành giáo dục tiểu học lại có tỷ lệ làm việc cao hơn. Kết quả là những cải thiện “mâu thuẫn” mà ILO gọi là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tỷ lệ thất nghiệp của Ấn Độ.

Tuy nhiên, những con số – vẫn chưa được tính toán chính xác bởi chính phủ chưa công bố bất kỳ số liệu tiêu dùng từ các cuộc khảo sát chi tiêu tiêu dùng thường được thực hiện mỗi năm – không hoàn toàn phản ánh tình hình đặc biệt của lực lượng lao động Ấn Độ.

“Trong trường hợp của Ấn Độ, một tỷ lệ rất lớn lực lượng lao động làm việc trong khu vực phi chính thức, nghĩa là nhiều người làm việc mà không có hợp đồng, không có bảo hiểm xã hội hoặc bảo hiểm, hoặc tự làm chủ,” theo Ranade.

Tại sao đầu tư vào Ấn Độ tăng trưởng chậm

Khi các nền kinh tế châu Á như Hàn Quốc, Malaysia và Trung Quốc đạt được giai đoạn phát triển tương tự như Ấn Độ trong quá khứ, điều này chủ yếu là do tăng trưởng xuất khẩu tập trung vào dệt may, may mặc hoặc lắp ráp điện tử. Nhưng ngay cả một lực lượng lao động mở rộng cũng không khiến hầu hết công nhân Ấn Độ tìm thấy công việc sản xuất có giá trị cao hơn và chất lượng tốt hơn. “Chúng tôi không thấy hiện tượng tương tự bởi vì Ấn Độ không nhanh chóng nắm bắt xuất khẩu lao động giá rẻ như động lực lớn thúc đẩy tăng trưởng,” theo Ranade.

Có lịch sử đằng sau điều này: Sau khi giành độc lập khỏi sự cai trị của Anh, Ấn Độ bắt đầu thực hiện các chính sách kinh tế bảo hộ hơn do nghi ngờ đối với thương mại quốc tế và sự bóc lột thuộc địa. Điều này bao gồm tự cung tự cấp trong lĩnh vực tài sản vốn và đầu tư nặng nề vào ngành đường sắt Ấn Độ, công ty thép và năng lượng hạt nhân. Đó là, theo Ranade, “một mô hình thay thế nhập khẩu”. Sau đó, Ấn Độ nhận ra rằng thương mại quốc tế có thể mang lại lợi ích.

Kể từ đó, tuy nhiên, quá nhiều quy định về ngành công nghiệp lớn và vốn rẻ hơn so với lao động đã làm chậm tiến trình. Theo nghiên cứu của Barclays, đầu tư vượt quá 40% vào năm 2008 nhưng hiện ở mức 34%. “Điều dị thường là tỷ lệ công nghiệp trong GDP của Ấn Độ gần như không di chuyển một inch kể từ năm 1991,” theo Ranade.

Dưới thời chính quyền Modi, “ba thảm họa kinh tế do con người gây ra” – phiên bản tiền tệ, triển khai “một cách hỗn loạn” của GST và phong tỏa liên quan đến đại dịch – đã góp phần vào điều này, theo Reetika Khera, giáo sư kinh tế tại Viện Công nghệ Ấn Độ tại Delhi. “Mỗi thảm họa này đều có tác động tàn phá đến các phần khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương,” bà nói.

Bài viết được cung cấp bởi nhà cung cấp nội dung bên thứ ba. SeaPRwire (https://www.seaprwire.com/) không đưa ra bảo đảm hoặc tuyên bố liên quan đến điều đó.

Lĩnh vực: Tin nổi bật, Tin tức hàng ngày

SeaPRwire cung cấp phát hành thông cáo báo chí thời gian thực cho các công ty và tổ chức, tiếp cận hơn 6.500 cửa hàng truyền thông, 86.000 biên tập viên và nhà báo, và 3,5 triệu máy tính để bàn chuyên nghiệp tại 90 quốc gia. SeaPRwire hỗ trợ phân phối thông cáo báo chí bằng tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Ả Rập, tiếng Trung Giản thể, tiếng Trung Truyền thống, tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Indonesia, tiếng Mã Lai, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và các ngôn ngữ khác. 

Cử tri lo ngại về bức tranh toàn cảnh

Sự bất lực của chính phủ trong việc tạo ra nhiều việc làm hơn đã gây ngạc nhiên, bởi vì Modi đã quảng bá một chư

Author

eva@pressvn.com